Cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 – một giai đoạn đầy biến động của lịch sử thế giới. Nền kinh tế toàn cầu rơi vào khủng hoảng, kéo theo những hệ lụy nặng nề cho nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Vừa trải qua hai cuộc chiến tranh giành độc lập, đất nước đứng trước những thách thức mới – một “cơn gió ngược” đẩy con thuyền cách mạng đến bờ vực nguy hiểm.
Như lời của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, những năm tháng ấy “kinh tế đất nước chưa bao giờ lâm vào tình trạng khó khăn đến như vậy”. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng? Bài học lịch sử nào đã được rút ra từ giai đoạn đầy biến động này?
Bóng Đen Bao Trùm Nền Kinh Tế
Theo tiểu luận lịch sử Đảng của Lê Văn Tuấn, nguyên nhân chủ quan chủ yếu dẫn đến khủng hoảng kinh tế đầu những năm 80 là những sai lầm trong chủ trương, chính sách:
- Mục tiêu viển vông, xa rời thực tế: Đặt mục tiêu “xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa trong vòng 5 năm” là một quyết định nóng vội, chưa đánh giá đúng thực lực đất nước.
- Coi nhẹ vai trò của nông nghiệp: Dù đã xác định nông nghiệp là “mặt trận hàng đầu”, nhưng trên thực tế, nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp còn hạn hẹp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.
- Lúng túng trong quản lý kinh tế: Chưa kết hợp hài hòa giữa kế hoạch hóa tập trung và phát huy vai trò của thị trường, dẫn đến mất cân đối cung cầu, sản xuất trì trệ.
Sai lầm nối tiếp sai lầm, đỉnh điểm là đợt tổng cải cách giá – lương – tiền cuối năm 1985. Thay vì kiềm chế lạm phát, chính sách này lại đẩy giá cả leo thang chóng mặt. Chỉ trong vòng 1 năm (từ tháng 12/1986 đến tháng 12/1987), giá bán lẻ hàng hóa tăng vọt 845,3%, đời sống người dân lao đao.
Bội chi ngân sách phình to, sản xuất đình trệ, hàng hóa khan hiếm,… bức tranh kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ phủ đầy gam màu ảm đạm.
Tiếng Gọi Thay Đổi
Khủng hoảng kinh tế kéo theo khủng hoảng về tư tưởng. Trong Đảng và xã hội dấy lên những tranh luận sôi nổi về mô hình phát triển, về con đường đi lên của đất nước. Rõ ràng, một cuộc “đại phẫu” là điều kiện tiên quyết để “cứu sống” nền kinh tế.
Yêu cầu đổi mới được đặt ra như một tất yếu khách quan, một mệnh lệnh của lịch sử. Đảng Cộng sản Việt Nam, với bản lĩnh chính trị và trí tuệ sáng suốt, đã ý thức sâu sắc về yêu cầu cấp thiết đó.
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã đi vào lịch sử như một bước chuyển mình mang tính lịch sử của cách mạng Việt Nam, mở ra kỷ nguyên đổi mới với những thành tựu rực rỡ cho đến ngày nay.
Câu chuyện về một thời kỳ lịch sử
Giữa những năm tháng khó khăn ấy, tôi may mắn được nghe ông ngoại – một người lính cũ kể lại câu chuyện về một thời kỳ lịch sử đầy biến động. Ông kể về những ngày tháng sau chiến tranh, niềm vui chiến thắng chưa kịp lan tỏa đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn. Nền kinh tế kiệt quệ, đời sống người dân cơ cực, thiếu thốn đủ bề.
Tôi vẫn nhớ như in ánh mắt xa xăm của ông khi hồi tưởng lại những ngày xếp hàng dài để đổi tem phiếu lấy gạo, từng hạt gạo được nâng niu như báu vật. Nhưng vượt lên tất cả là ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan của người dân Việt Nam. Ông kể về những buổi sinh hoạt chi bộ sôi nổi, nơi mọi người cùng nhau đóng góp ý kiến, tìm ra giải pháp tháo gỡ khó khăn.
Câu chuyện của ông như một thước phim tư liệu quý giá khắc sâu trong tâm trí tôi về một thời kỳ lịch sử đầy biến động nhưng cũng rất đỗi hào hùng của dân tộc. Từ những khó khăn, gian khổ ấy, chúng ta càng thêm trân trọng những thành quả đổi mới của đất nước hôm nay, đồng thời luôn vững tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và nỗ lực vươn lên không ngừng của dân tộc.