Giữa dòng chảy lịch sử hào hùng của dân tộc, có những danh nhân với trí tuệ uyên bác, tâm hồn cao đẹp đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đời sau. Lê Quý Đôn – một trong “Tứ đại danh thần” đời Lê – là một tấm gương sáng chói về tinh thần hiếu học, lòng yêu nước nồng nàn và tài năng phi thường. Hành trình cuộc đời và sự nghiệp của ông là nguồn cảm hứng bất tận cho thế hệ trẻ hôm nay.
Tuổi thơ Dĩnh Diệu
Ngay từ thuở ấu thơ, Lê Quý Đôn (1726-1784) sinh ra tại làng Diên Hà, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, đã được biết đến là một cậu bé thông minh xuất chúng. Người ta kể lại rằng, chỉ mới 14 tuổi, Lê Quý Đôn đã theo cha là Hiệu úy Lê Trọng Thứ lên Thăng Long học tập. Tại nơi kinh kỳ phồn hoa, cậu bé Đôn đã khiến nhiều người kinh ngạc bởi khả năng tiếp thu nhanh nhạy và kiến thức uyên thâm.
Năm 18 tuổi, Lê Quý Đôn thi Hương và đỗ Giải nguyên. Đến năm 27 tuổi, ông tiếp tục ghi danh vào lịch sử khoa bảng khi đỗ Hội nguyên, rồi Đình Nguyên Bảng nhãn. Tài năng xuất chúng của Lê Quý Đôn đã đưa ông trở thành tấm gương sáng cho biết bao thế hệ sĩ tử noi theo.
Con Đường Quan Lộ Và Những Chuyến Đi Định Mệnh
Sau khi đỗ đạt, Lê Quý Đôn được triều đình bổ nhiệm nhiều chức vụ quan trọng. Trong suốt hơn 30 năm cống hiến cho đất nước, ông đã để lại nhiều dấu ấn đáng ghi nhận. Có thể kể đến một số sự kiện quan trọng ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời và sự nghiệp của Lê Quý Đôn như sau:
- Chuyến đi sứ Trung Quốc (1760 – 1762): Tại Yên Kinh (Bắc Kinh), Lê Quý Đôn đã có cơ hội gặp gỡ các sứ thần Triều Tiên và trí thức nổi tiếng của nhà Thanh. Tại đây, ông đã tham gia nhiều buổi tranh luận về sử học, triết học,… Học vấn uyên bác của Lê Quý Đôn khiến các học giả Trung Quốc, Triều Tiên rất mực khâm phục. Ông cũng mở mang kiến thức khi được tiếp cận nhiều cuốn sách mới lạ, trong đó có cả sách của người phương Tây về địa lý thế giới, ngôn ngữ học, thủy văn học…
- Những chuyến công cán về Sơn Nam, Tuyên Quang, Lạng Sơn (1772, 1774): Với vai trò là một vị quan thanh liêm, Lê Quý Đôn đã đi khắp nơi, tìm hiểu nỗi khổ của nhân dân, vạch trần tệ tham nhũng, ăn hối lộ của quan lại. Ông cũng trực tiếp khám đạc ruộng đất ở các vùng ven biển bị địa chủ, cường hào man khai, trốn thuế…
Nhờ tinh thần cầu thị, ham học hỏi, Lê Quý Đôn đã tích lũy cho mình một vốn kiến thức phong phú, trở thành một trong những nhà bác học uyên bác nhất thời bấy giờ. Như ông từng chia sẻ trong lời tựa cuốn sách “Kiến văn tiểu lục”: “Tôi vốn là người nông cạn, lúc còn bé thích chứa sách, lúc trưởng thành ra làm quan, xem lại sách đã chứa trong tủ, vâng theo lời dạy của cha, lại được giao du nhiều với các bậc hiền sĩ đại phu. Thêm vào đấy phụng mệnh làm việc công, bốn phương rong ruổi: mặt bắc sang sứ Trung Quốc, mặt tây bình định Trấn Ninh, mặt nam trấn thủ Thuận Quảng (Thuận Hóa, Quảng Nam). Đi tới đâu cũng để ý tìm tòi, làm việc gì mắt thấy tai nghe đều dùng bút ghi chép, lại phụ thêm lời bình luận sơ qua, giao cho tiểu đồng đựng vào túi sách”.
Thời Đại Và Dấu Ấn Của Một Nhà Bác Học
Lê Quý Đôn sống ở thế kỷ 18 – thời kỳ xã hội Việt Nam có nhiều biến động lớn. Giữa những mâu thuẫn trong lòng xã hội khi ấy, những mầm mống mới của thời kỳ kinh tế hàng hóa, thị trường trong nước mở rộng, thủ công nghiệp và thương nghiệp dần phát triển… Tình hình đó đã tác động mạnh mẽ tới đời sống văn hóa, tư tưởng, khoa học.
Thế kỷ 18 chứng kiến sự xuất hiện của nhiều danh nhân văn hóa lớn như Đoàn Thị Điểm, Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Lê Hữu Trác… Các tri thức về văn hóa, khoa học được tích lũy hàng ngàn năm đã đạt đến trình độ phải hệ thống hóa, phân loại. Và Lê Quý Đôn, với học vấn uyên bác của mình, đã trở thành người “tập đại hành” mọi tri thức của thời đại. Có thể nói, toàn bộ những tri thức cao nhất ở thế kỷ thứ 18 đều được bao quát vào trong các tác phẩm của Lê Quý Đôn. Tác phẩm của ông như cái mốc lớn đánh dấu thành tựu văn hóa của cả một thời đại với tất cả những ưu điểm cùng nhược điểm của nó.
Di Sản Văn Hóa Đồ Sộ
Lê Quý Đôn để lại cho hậu thế một kho tàng kiến thức đồ sộ với hơn 40 bộ sách, bao gồm hàng trăm quyển, tuy nhiên một số đã bị thất lạc. Trong số đó, nổi bật là:
- “Quần thư khảo biện”: Tác phẩm chứa đựng nhiều quan điểm sâu sắc về triết học, lịch sử, chính trị, được viết trước khi ông tròn 30 tuổi.
- “Vân đài loại ngữ”: Hoàn thành lúc 30 tuổi, đây là một loại “bách khoa thư” tập hợp các tri thức về triết học, khoa học, văn học… được sắp xếp theo thứ tự: Vũ trụ luận, địa lý, điển lệ, chế độ, văn nghệ, ngôn ngữ, văn tự, sản vật tự nhiên, xã hội… “Vân đài loại ngữ” được đánh giá là bộ sách đạt tới trình độ phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa cao, đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc đối với nền khoa học Việt Nam thời phong kiến.
- “Đại Việt thông sử” (còn gọi là “Lê triều thông sử”): Bộ sử được viết theo thể ký truyện, ghi chép sự việc theo từng loại, từng chủ đề một cách hệ thống, bắt đầu từ Lê Thái Tổ đến Cung Hoàng, bao quát hơn 100 năm của triều Lê. Sách chứa đựng nhiều tài liệu mới mà các bộ sử khác không có, đặc biệt là về cuộc kháng chiến chống Minh.
- “Kiến văn tiểu lục”: Tập bút ký ghi lại những suy ngẫm về lịch sử và văn hóa Việt Nam từ thời Trần đến thời Lê. Ông cũng đề cập tới nhiều khía cạnh thuộc chế độ các vương triều Lý, Trần, từ thành quách núi sông, đường xá, thuế má, phong tục tập quán, sản vật, mỏ đồng, mỏ bạc và cách khai thác cho tới các lĩnh vực thơ văn, sách vở…
- “Phủ biên tạp lục”: Tác phẩm được Lê Quý Đôn hoàn thành trong thời gian làm Hiệp trấn Thuận Hóa. Nội dung sách ghi chép về tình hình xã hội Đàng Trong từ thế kỷ 18 trở về trước.
Công trình biên soạn lớn nhất của Lê Quý Đôn là bộ “Toàn Việt thi lục” gồm 6 quyển, tuyển chọn 897 bài thơ của 73 tác giả từ thời Lý đến đời Lê Tương Dực (1509 – 1516). Lê Quý Đôn hoàn thành “Toàn Việt thi lục” năm 1768, dâng lên vua và được thưởng 20 lạng bạc.
Bên cạnh công việc biên soạn, Lê Quý Đôn còn để lại cho đời nhiều tác phẩm văn thơ có giá trị. Theo Phan Huy Chú, Lê Quý Đôn có “Quế Đường văn tập” gồm 4 quyển, nhưng đã bị thất lạc. Về thơ, ông có “Quế Đường thi tập” với khoảng vài trăm bài được sáng tác trong nước và trong thời gian đi sứ Trung Quốc.
Nhận xét về thơ Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú viết: “Ông là người học vấn rộng, đặt bút thành văn. Cốt cách thơ trong sáng. Lời văn hồn nhiên…, không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển cả, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia”.
Quan điểm về thơ của Lê Quý Đôn được ông tổng kết như sau: “Làm thơ có 3 điểm chính: một là tình, hai là cảnh, ba là việc. Tiếng sáo thiên nhiên kêu ở trong lòng mà động vào máy tình; thị giác tiếp xúc với ngoài, cảnh động vào ý, dựa cổ mà chứng kim, chép việc thuật chuyện, thu lãm lấy tinh thần… đại để không ngoài ba điểm ấy”.
Kết Luận
Lê Quý Đôn xứng đáng là một tấm gương sáng ngời về tinh thần hiếu học, lòng yêu nước và tài năng xuất chúng. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là nguồn cảm hứng bất tận cho thế hệ trẻ hôm nay trên con đường học tập, tu dưỡng và cống hiến cho quê hương, đất nước.
Bạn có muốn tìm hiểu thêm về những danh nhân kiệt xuất khác của dân tộc Việt Nam? Hãy để lại bình luận hoặc chia sẻ bài viết này để cùng lan tỏa niềm tự hào về lịch sử và truyền thống văn hóa của dân tộc ta.
Câu chuyện về Lê Quý Đôn:
Truyền lại rằng, một lần nọ, vua Lê Hiển Tông ngự chơi thuyền trên hồ Tây. Nhà vua cho gọi Lê Quý Đôn ra ứng đối. Vua ra vế đối:
“Gió đưa thuyền vút, nước non gấm hoa.”
Lê Quý Đôn nghe xong, trầm ngâm một lát rồi ứng khẩu:
“Trăng lồng cổ nguyệt, bóng dáng ngọc ngà.”
Vế đối của Lê Quý Đôn không chỉ đối ý, đối chữ tài tình mà còn thể hiện tầm hiểu biết uyên bác và khả năng ứng đối nhanh nhạy của một trạng nguyên đầy tài năng.